 |
Ấm Nhạc Trong Truyện Võ Hiệp Kim Dung
Trong bài "Võ công trong truyện Võ Hiệp Kim Dung", đã trình
bày khái quát với các bạn rằng Kim Dung quan niệm âm nhạc
cũng như một thứ võ công, có thể giúp người ta dưỡng
thương, chữa bệnh, mê hoặc và khắc chế địch thủ. Trên
một đất nước Trung Hoa rộng lớn, đa chủng tộc và sắc
tộc, nhiều loại hình âm nhạc đã ra đời và hình thành.
Trong những tác phẩm võ hiệp của mình, Kim Dung đã dành cho
âm nhạc một vị trí quan trọng. Ấm nhạc có ở khắp mọi
nơi. Trong tác phẩm võ hiệp của ông, ta bắt gặp "cái vỏ"
là sự đấu tranh của võ lâm đầy đau thương, sắt máu
nhưng "cái ruột" chính là tâm hồn nghệ sĩ khoáng dật,
thanh thoát.
Có những tác phẩm mà âm nhạc như một sợi chỉ xuyên
suốt, trở thành cốt lõi, chi phối toàn bộ và tạo nên cái
hồn cho tác phẩm. Đó là trường hợp của Tiếu Ngạo Giang
Hồ (TNGH).
Tác phẩm này lấy chủ đề từ một bản nhạc cầm tiêu hợp
tấu giữa Bạch đạo và Hắc đạo, giữa Chính và Tà. Đó
là bản nhạc hợp soạn giữa hai người nghệ sĩ, hai nhân
vật võ lâm tiêu biểu : Lưu Chính Phong, sư đệ của chưởng
môn phái Hành Sơn và Khúc Dương, trưởng lão của Triêu
Dương thần giáo.
Vốn xưa, họ là hai người đứng ở hai thái cực, hai thế
lực đối nghịch với nhau, coi nhau là cừu hận. Nhưng rồi
âm nhạc đã nối kết tình bạn của Lưu-Khúc lại và người
này nhìn ra bản chất nghệ sĩ tài hoa của người kia. Khúc Tiếu Ngạo Giang Hồ ra đời như kết quả của hai tâm hồn đồng thanh, đồng điệu và đồng cảm, một khúc nhạc có khả năng hóa giải sự khác biệt giữa Hắc và Bạch.
Lưu Chính Phong và Khúc Dương, một cầm một tiêu, đã hòa
tấu bản này đạt tới đỉnh cao nhất của âm nhạc "khoan hòa
trung chính, khi mau sầm sập, khi khoan thai, chỗ trầm lắng,
chỗ cao vút", tương thông tâm ý. Lưu Chính Phong ăn mừng
thọ 60 tuổi, muốn rửa tay gác kiếm để tìm những tháng
ngày ung dung tự tại giữa một đời đấu tranh trá ngụy. Thế nhưng, phái Tung Sơn mà lãnh tụ là Tả Lãnh Thiền đã huy động hết lực lượng của Hoa Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn nhằm ngăn cản hành động của Lưu Chính Phong, vu cáo rằng "Lưu Chính Phong kết bạn tà ma", buộc Lưu Chính Phong phải tìm cách giết Khúc Dương, chặt đứt mối quan hệ với
Triêu Dương thần giáo.
Không đồng ý với cách sống bán bạn cầu vinh, Lưu Chính
Phong đã chịu một thảm kịch đau đớn: nhà tan người
chết, bản thân bị trọng thương. Khúc Dương nhanh tay cứu
bạn, đưa bạn chạy về dưới núi Hành Sơn. Nơi đây, hai đại cao thủ đã hợp tấu lần sau cùng trước khi qua đời rồi trao bản nhạc cho đệ tử phái Hoa Sơn là Lệnh Hồ Xung.
Phải chăng khát vọng Tiếu Ngạo Giang Hồ là không bao giờ có
thể thực hiện được giữa một cuộc sống đầy đua
tranh, thù hận, chia rẽ và bạo lực? Cầm bản đàn của hai
bậc tiền bối, Lệnh Hồ Xung phiêu bạt giang hồ, thân danh
tàn tạ, bị khinh miệt, bị đánh, bị vũ nhục, bị vu cáo.
Người ta cứ đinh ninh rằng đó là một loại bí lục võ
công thượng thặng! Lệnh Hồ Xung gặp nàng Doanh Doanh trong
ngõ Lục Trúc thành Lạc Dương, ngỏ hết nỗi đau thương của
đời mình, trong đó có niềm đau về mối tình đầu tan vỡ. Doanh Doanh đã dạy cho Lệnh Hồ Xung khúc đàn Thanh Tâm Phổ Thiện Trú để duy trì mạng sống. Ấm nhạc trở thành một liều thuốc chữa bệnh tâm thần, tạo nên sự hưng phấn, đem lại nguồn sống cho Lệnh Hồ Xung.
Đoạn dễ thương nhất của Tiếu Ngạo Giang Hồ là đoạn
Doanh Doanh đàn Thanh Tâm Phổ Thiện Trú ru cho Lệnh Hồ Xung
ngủ. Cuối cùng, âm nhạc cũng không đủ tác dụng vực dậy một
tâm hồn đau thương trong một thể xác đã suy tàn, nàng
đành cõng tình lang lên chùa Thiếu Lâm, chịu bị cầm tù
để tình lang được chữa trị.
Kết thúc Tiếu Ngạo Giang Hồ là một kết thúc thật đẹp.
Lệnh Hồ Xung chữa được thương thế, cùng Doanh Doanh hợp
tấu bản Tiếu Ngạo Giang Hồ, sống cuộc đời thanh bình,
hạnh phúc.
Tiếu Ngạo Giang Hồ đưa ra một luận điểm triết lý sâu
sắc : con người sinh ra không thể sống một mình, cũng
không thể sống hai mình khi tâm ý chẳng tương thông.
Khát vọng của Tiếu Ngạo Giang Hồ chính là tình thương yêu
con người đằm thắm. Sự giao hòa âm nhạc tạo nên giao hòa
tình yêu và chỉ có tình yêu chân chính mới đạt đến hạnh
phúc làm người.
Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, ta bắt gặp một loại hình âm nhạc
khác - âm nhạc lang thang của chưởng môn phái Hành Sơn, Tiêu
Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh.
Với vóc dáng "điêu linh cổ quái", người chưởng môn ấy
từ chối quyền lực và danh vọng, mang một cây dao cầm
trong có dấu một thanh kiếm mỏng như lá lúa, vui chơi bốn
biển năm hồ. Kiếm để trừ diệt kẻ ác, dao cầm để di dưỡng tâm
hồn. Mạc Đại tiên sinh chính là hình tượng mà Nam Hoa Kinh
của Trang Tử thường mơ ước: "Khi cao lên chín ngàn dặm, nương
mây cỡi gió mà bay".
Tiếc thay, ông ta chưa đạt được phong cách thần tiên thoát
tục đó bởi cái khúc Tiêu Tương dạ vũ mà tiên sinh thường
hay hát là một "bài ca buồn bã có đi mà không có lại".
Tiếng hát của tiên sinh là tiếng hát lênh đênh trong ảo ảnh
sương khói và suốt đời, tiên sinh chỉ là một nghệ sĩ
lang thang. Mạc Đại là nhà du ca lớn nhất trong Tiếu Ngạo Giang Hồ và
trong toàn bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, một thứ
thần tiên bị đọa đày phải nhập thể và nhập thế. Nếu Doanh
Doanh chơi nhạc thính phòng thì âm nhạc của Mạc Đại là nhạc
du ca.
Nhưng Tiếu Ngạo Giang Hồ không phải chỉ có chừng đó dạng
âm nhạc. TNGH còn có khúc "Sơn ca Phúc Kiến" của Lâm Bình
Chi mang về núi Hoa Sơn dạy cho Nhạc Linh San hát. "Chị em lên núi hái chè", câu sơn ca đó làm tan hồn nát ruột Lệnh Hồ Xung vì mỗi khi Nhạc Linh San hát lên, anh biết nàng ta đang nghĩ tới Lâm Bình Chi và phụ rẫy mối tình đầu của mình.
TNGH còn có một bài ca rất buồn cười mà bọn giáo chúng
Triêu Dương thần giáo đồng thanh hợp ca để tâng bốc
Nhậm Ngã Hành khi lão vừa chiếm lại được ngôi giáo chủ :
"Thánh giáo văn thành võ đức, nhân nghĩa anh minh, thiên thu
trường trị, nhất thống giang hồ. Bọn thuộc hạ đưa lời cung nghinh thành giáo chủ thương sinh
trạch bị, ơn khắp lê dân..." Nguyên cái loại "âm nhạc" này
phát xuất từ thời giáo chủ Đông Phương Bất Bại. Khi Đông Phương Bất Bại trở thành "tất bại", bọn giáo chúng Triêu Dương thần giáo mới dùng nó để ca ngợi Nhậm Ngã Hành. Cả ngàn người cùng há miệng hò ca chấn động
cả lỗ tai người nghe! Thứ "âm nhạc" này bị coi là nhạc sến!
Trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Kim Dung đã để cho âm nhạc
xuất hiện trước tiên với nhân vật Côn Luân tam thánh Hà
Túc Đạo. Hà Túc Đạo tuổi ngoài 40, khuôn mặt xương
xương, giỏi kiếm, giỏi cờ, giỏi đàn, được xưng tụng là
tam thánh, từ Côn Luân xuống Trung Nguyên. Ông ta có một khúc đàn tuyệt vời, có thể sai khiến trăm chim tụ họp về nhảy múa, ca hót gọi là Bách điểu triêu phụng. Cô bé Quách Tường, 16 tuổi, đi tìm Dương Qua, đã
gặp người trung niên tài hoa Hà Túc Đạo ngoài rừng chùa
Thiếu Lâm, được nghe khúc Bách điểu triêu phụng và tiếng
muôn chim ca hót.
Hình ảnh trong sáng, tươi đẹp của cô đã in ngay vào trong
tâm hồn chàng nghệ sĩ trung niên. Hôm sau, khi chiến đấu
với ba cao thủ Thiếu Lâm Tây Vực trước sự chứng kiến
của Quách Tường, Hà Túc Đạo chỉ dùng đến một ngón tay,
tay còn lại vận Cách không chỉ phóng vào cây dao cầm đang
để dưới đất, mời Quách Tường nghe bản nhạc mình mới
sáng tác tặng cô. Kiếm chưởng thì sát phạt sắt máu, tiếng đàn lại lãng
mạn xuân tình, u uất thương nhớ. Cái công phu phân ý của
Hà Túc Đạo quả thật hy hữu ! Cô bé Quách Tường thơ ngây
nghe hết cung đàn, cảm động và đỏ mặt vì biết Hà Túc
Đạo đang dùng âm nhạc tỏ tình với mình.
Thế nhưng mối tình của Hà Túc Đạo cũng chẳng tới đâu.
Hà Túc Đạo đánh thua sư Giác Viễn, hổ thẹn chạy về núi
Côn Luân. Quách Tường yêu Dương Qua mà tìm nhau không gặp,
lên núi Nga My đi tu, mở ra phái Nga My. Ấm nhạc của Hà Túc
Đạo cũng "có đi mà không có lại". Nó trở thành bài biệt
ca của tình yêu.
Nhưng âm nhạc hay nhất, đẹp nhất, mang giá trị nhân bản cao
nhất vẫn là bài Hòa ca của giáo chúng Minh giáo (tức Bái
Hỏa giáo), truyền từ Ba Tư sang Trung Quốc. Đây là bài ca được hát trên
Quang Minh Đỉnh khi quần hùng Trung Quốc bao vây quần hùng
Minh giáo, vu cáo họ là tà giáo, có ý muốn đuổi tận diệt.
Theo tác giả Kim Dung, bài Hỏa ca lấy từ thơ của nhà thơ
lớn Ba Tư Omar Khayam, có những câu được dịch thoát ra như
thế này:
|
Đốt tàn thân xác của ta
Ngọn lửa thánh bốc cháy lên đỏ rực
Sống đã chẳng có chi là hạnh phúc
Thì chết đi nào có khổ đau gì
Vì thiện lương, ta trừ cái ác
Nẻo quang minh cứ vậy mà đi
Hỷ, Lạc, Sầu, Bi xin gởi về cát bụi
Tội nghiệp thay người đời hoạn nạn lắm khi. |
Giữa cảnh đang bị cường địch bao vây, giáo chúng Minh giáo
vẫn ung dung tự tại hát lên bài Hỏa ca dâng lên đức Giáo
chủ Minh Tôn Di Lạc, bày tỏ tấm lòng của mình với cuộc
đời và thể hiện khí phách hiên ngang trước cái chết.
Trương Vô Kỵ đã nghe được bài ca đó và nhận ra rằng
Minh giáo là một đạo nhân bản, rằng những lời kết án
Minh giáo là bàng môn tả đạo là những lời xuyên tạc, rằng
việc chống lại người Minh giáo là hành động phi nhân. Và chàng đã xả thân cứu quần hùng Minh giáo, nguyện hiến tấm thân vì trăm họ để cho giáo chúng Minh giáo được sống. Chàng được Minh giáo Trung Quốc bầu lên làm giáo chủ, huy động các lực lượng Minh giáo chống lại quân
Nguyên, giành lại được giang sơn từ giống nòi dị tộc. Chu Nguyên Chương lên ngôi cũng còn biết nhớ nguồn gốc của mình xuất thân từ Minh giáo nên đặt đế hiệu là Minh Thành Tổ.
Người Minh giáo mặc áo đạo bào trắng, trước ngực áo có
vẽ ngọn lửa đỏ, gặp nhau chào bằng hai bàn tay chắp lại
thành hình ngọn lửa. Và thánh ca của họ chính là bài Hỏa
ca, bài mang một giá trị nhân bản, nhân đạo tuyệt vời.
Trong Lục Mạch Thần Kiếm (LMTK), âm nhạc mới phong phú làm
sao. Trước hết, người ta dễ nhận ra bài ca "chiến
thắng" ê a của bọn lính Khất Đan sau những cuộc "hành
quân" qua thảo nguyên ngoài ải Nhạn Môn Quan. Bọn chúng bắt đàn bà, giết trẻ em, tước đoạt tài vật của những gia đình lương dân Trung Quốc. Ầy thế mà chúng vẫn hát được!
Nói đến âm nhạc LMTK, ta không thể quên hai nhân vật quái
dị trong nhóm Hàm Cốc bát hữu (tám người bạn ở Hàm Cốc)
là Cầm tiên Khang Quảng Lăng và Lý Quý Lỗi. Cầm tiên Khang
Quảng Lăng đánh địch bằng sáu cây dao cầm. Nghe tiếng đàn của lão, trái tim người ta nhảy loạn lên, đầu óc trở thành u mê, hồ đồ. Thế nhưng lão tay chân đâu mà chơi được một lúc sáu cây đàn?
Kim Dung đã giải quyết vấn đề một cách thú vị: Khang
Quảng Lăng đặt sáu cây đàn ở sáu nơi khác nhau rồi vận
chỉ công Cách không đánh vào phím đàn. Hoá cho nên tiếng đàn của lão thoạt đông, thoạt tây; khi trên, khi dưới khiến người ta tưởng khinh công của lão xuất thần nhập hoá. Nhạc sĩ Khang Quảng Lăng này rất hồ
đồ. Lão tin rằng tiếng đàn của lão có thể làm người
chết sống lại: "Vậy mộ của Huyền Khổ đại sư chôn ở
đâu ? Dẫn ta đến mau, ta đàn cho đại sư nghe một khúc, không
chừng đại sư có thể sống lại ". Ngược lại với Khang
Quảng Lăng, nhân vật Lý Quý Lỗi là một con hát. Anh ta
vừa đánh, vừa hát bội, thậm chí khi bị đánh gãy chân,
thay vì rên la, anh ta lại mở miệng hát (!). Hai nhân vật chơi nhạc trong Hàm Cốc bát hữu là hai con
người hồn nhiên như trẻ con. Họ xuất hiện rất ngắn
nhưng để lại ấn tượng rất sâu trong lòng người đọc.
Trong LMTK, người ta còn nghe tiếng sáo của bọn Hồ tăng,
chuyên cỡi trên những con trăn lớn và thổi sáo để kích
thích đàn rắn xung phong tấn công. Tác giả Kim Dung chỉ nói sơ lược rằng Ba La Tinh và Triết La Tinh là những Hồ tăng nước Tây Vực nhưng người đọc cũng có thể hiểu được đây là những nhà sư Ần Độ,
một đất nước vốn có những fakir có thủ thuật dùng
tiếng sáo để kích thích rắn.
Cũng LMTK, người ta còn nghe bài ca "Xin cơm" của anh em Cái
bang, một bài hát không dùng vào việc xin cơm thông thường
mà để kết Đả cẩu trận, khắc chế địch nhân hung hãn.
Khi viết về âm nhạc, kiến thức âm nhạc của Kim Dung tiên
sinh cũng rất tinh tường và phong phú. Trong Lộc Đỉnh Ký
(LDK), ông đã trích lại bài ca của danh sĩ Ngô Mai Thôn nói
về Trần Viên Viên - một danh kỹ cuối đời nhà Minh đầu
đời nhà Thanh, người tình của Lý Sấm và Bình Tây Vương
Ngô Tam Quế. Trần Viên Viên được mô tả "mặt đẹp như Quan Ấm", sống
một cuộc đời đau thương chìm nổi đúng như định đề
cổ điển của văn học "hồng nhan đa truân". Tất cả những
đau thương đó đều được đúc kết thành Viên Viên khúc.
Khi đi tu, Viên Viên vẫn hát khúc ca Ngô Mai Thôn viết cho
mình với cây hồ cầm. Ngô Tam Quế nghe được vài chục
câu, Mỹ đao vương Hồ Dật Chi nghe được dăm ba câu. Chỉ
có Vi Tiểu Bảo, một kẻ chẳng hiểu âm nhạc là gì, lại có
hồng phước nghe được trọn bài.
Viên Viên khúc nghe thật buồn bã, đúng là một bài ca mất
nước chẳng khác gì Hậu đình hoa của Lý Hậu chủ trong thơ
Đỗ Mục:
 |
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa
Gái chơi đâu biết hờn vong quốc
Bên sông còn hát Hậu đình hoa |
Lộc Đỉnh Ký còn có một loại "âm nhạc" ngộ nghĩnh khác:
những bài ca nịnh bợ của bọn Thần Long giáo. Đó là những
bài ca mang tính chất tự kỷ ám thị dùng trong lúc đánh nhau,
đã được Kim Dung viết với một giọng văn thô thiển, phù
hợp với "trình độ" của bọn giáo chúng ngu muội :
|
Hồng giáo chủ thần thông quảng đại
Giáo chúng ta đánh bại khắp nơi
Địch nhân thấy bóng chạy tơi bời
Cứng rắn cũng tan tành xác pháo
Hồng giáo chủ ra oai sấm sét
Chúng đô nhi sức mạnh phi thường
Ta một người trăm địch khôn đương
Địch hàng vạn trăm quân đủ thắng
Hồng giáo chủ thần kinh như điện
Chiếu nhãn quang ra khắp muôn phương.... |
Những bài hát như vậy mang tính kinh điển, khẩu hiệu, quê
muội, tự nó đã nói lên được kiểu lừa bịp trá ngụy
của những tà giáo thứ thiệt. Cái hay của Kim Dung là ông
chỉ mô tả sự kiện, tường thuật vấn đề không bình
luận. Nhưng thông qua sự kiện, vấn đề, người đọc nhận biết
được ý đồ của ông, hiểu được ông muốn nói lên
điều gì. Bài ca tập thể lạ lùng của bọn giáo chúng Thần
Long đảo sau đây khiến cho người ta nghĩ đến sự kiện
Vệ binh đỏ ở Trung Quốc trong thời Cách mạng văn hóa :
|
Bảo huấn của giáo chủ
Thời khắc ghi vào lòng
Lập công và thắng địch
Trường thọ với non sông. |
Trong truyện võ hiệp của Kim Dung, âm nhạc xuất hiện khắp
mọi nơi trên đất nước Trung Hoa rộng lớn. Trong Lãnh
Nguyệt bảo đao, ta nghe được tiếng hát vùng Sơn Đông -
Triết Giang của tiểu anh hùng Hồ Phi. Trong Độc bá quần
hùng, ta nghe tiếng hát Y Tư Mỹ (Islam) - tiếng hát của những
giáo chúng Hồi giáo - khởi nguyên từ Khả Lan Kinh (kinh
Coran), thể hiện khát vọng về cuộc sống hoà bình, hạnh
phúc, thương con người dưới đêm trăng thanh, bên ánh lửa
hồng giữa sa mạc.
Trong Xạ Điêu Anh Hùng Truyện, ta nghe được khúc sáo ma
quái, nhiếp hồn của Đông Tà Hoàng Dược Sư. Trong Tiếu
Ngạo Giang Hồ, ta nghe được tiếng hát của dân tộc Miêu
Cương của giáo chủ Ngũ Độc giáo Vân Nam Lam Phượng Hoàng.
Trong Lộc Đỉnh Ký, ta nghe được bài ca Trầm Giang hùng
tráng trích từ tác phẩm dân ca Đào hoa phiến, ca ngợi cái
chết anh hùng của nhà yêu nước Sử Các Bộ, người chịu hy
sinh để giành lại đất nước trong bàn tay dị tộc. Nhưng
không phải ai cũng có thể hát được khúc Trầm Giang.
Đi trên sông Liễu Giang giữa đêm mưa gió, cả mấy chục
người mà chỉ có Trần Cận Nam - Tổng đường chủ của Thiên
Địa hội - và Ngô Lục Kỳ - đường chủ Hồng Thuận đường
của Thiên địa hội - mới đủ công lực cất lên tiếng hát
át cả tiếng cuồng phong sậu vũ :
|
Đầy lòng phẫn nộ ngỏ cùng ai
Giọt lệ già nua dạ ái hoài
Trong chốn cô thành mong cứu viện
Tàn quân huyết chiến luống bi ai
Đoái trông cố quốc lòng đau xót
Trùng vây không nỗi vượt ra ngoài
Trường giang một dải ba ngàn dặm
Nỡ để về tay kẻ khác loài .. |
Và :
|
Non nước ngàn thu để tiếng truyền
Đau lòng huyết lệ khắp Tây Xuyên... |
Trong LMTK, ta nghe được tiếng hát bài ca "Hái sen ở Giang
Nam (Giang Nam khả thái liên)" hòa với tiếng đàn hồ cầm
thánh thót của cô gái đẹp A Bích tại Yến tử ổ, Giang Nam :
|
Giang Nam khả thái liên
Liên điệp hà điền điền
Ngư hý liên điệp đông
Ngư hý liên điệp tây
Giang Nam ta hãy hái sen
Lá sen dày khít mọc chen thành đồng
Cá đùa bên lá phía đông
Cá đùa bên lá sen lồng phía tây.. |
Nhưng tiếng hát đẹp nhất, mang nặng tính chất triết lý
nhất là vẫn là tiếng hát của Tiểu Siêu, cô gái lai
người Ba Tư. Tiểu Siêu là cô bé 16 tuổi, được mẹ là
Đại Ỷ Ty đưa vào "nằm vùng" trong Minh giáo Trung Quốc, len
lỏi lên Quang Minh Đỉnh để tìm cách đánh cắp bộ Thần
công đại nã di tâm pháp. Cô trở thành con hầu của giáo chủ Trương Vô Kỵ và thầm
yêu trộm nhớ Trương Vô Kỵ. Nhưng cô đã tiên cảm được
rằng mối tình đó không đến đâu, số phận của cô không
biết sẽ trôi dạt về đâu.
Nỗi u oán đó biểu hiện lên trong những khi cô hát cho giáo
chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ nghe. Lời ca nguyên là một trong 101
bài thơ của Nga Mạc (Omar Khayam) - thi hào Ba Tư đã được Kim
Dung dịch qua tiếng Quan Thoại. Triết lý trong lời ca là cái khát vọng cắt nghĩa cho được
những vấn đề gần gũi nhất của con người : cuộc sống,
tình yêu và cái chết:
|
Lai như lưu thủy hề thệ như phong
Bất tri hà xứ lai hề hà sở chung
Chợt đến như giòng sông nước chảy
Thoắt tan như gió qua mau
Chẳng biết từ đâu mà đến
Cũng chẳng biết về nơi đâu. |
Bài ca này là một bài thánh ca của Bái hỏa giáo Ba Tư, và
tiếng hát cuối cùng là tiếng hát của Hân Ly trong cơn mê
sảng trước khi chết trên một hải đảo vùng Đông Bắc Trung
Quốc.
Trong lịch sử văn minh Trung Quốc, không có biên giới giữa
Thi và Ca. Trường phái thơ Đường đã dung nạp một cách
tự nhiên âm nhạc vào thi ca; biến phong cách này trở thành
truyền thống :
|
Sở thanh phong địch ly đình vãn
Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần |
Hoặc:
|
Khương địch hà tu oán dương liễu
Xuân phong bất độ Ngọc môn quan |
Kim Dung đã đưa âm nhạc vào tiểu thuyết đúng như truyền
thống của Đường thi nhưng lãnh vực phản ánh của ông rộng
hơn và mức độ phản ánh sâu sắc hơn. Ấm nhạc đó hóa
giải được tính chất đấu tranh gay gắt, phức tạp của bản
chất truyện võ hiệp. Nó làm nên cái hồn tính lãng mạn cho tiểu thuyết võ hiệp,
đem lại chất hài hước vui nhộn cho tiểu thuyết võ hiệp.
Nói là âm nhạc, nhưng nó chính là võ công, là công phu, là y
đạo, và đồng thời là phương thức biểu lộ tình yêu.
Ngay chính trong cách dung nạp này, Kim Dung đã chứng tỏ
được rằng ông là bậc thầy trong kỹ thuật viết tiểu
thuyết. Đọc Kim Dung là lắng nghe chất âm nhạc trong tiểu thuyết
của Kim Dung, nhờ âm nhạc, người ta thấy được niềm tin,
dù trong đau thương hay trong hạnh phúc.

Trang Nhà
|